Hai danh nhân họ Phạm mình muốn nhắc đến ở đây là nhà văn hóa Phạm Quỳnh và thi sĩ tài hoa mệnh bạc Phạm Hầu và địa điểm là chùa Vạn Phước .
Chùa Vạn Phước toạ lạc trên đỉnh núi Bình An, thuộc phường Trường An, thành phố Huế trong một con hẻm nhỏ trên đường Điện Biên Phủ. Chùa quay mặt về hướng Tây Nam, xa xa có núi Thiên Thai làm tiền án, phía trước có khe suối Tiên quanh năm nước chảy trong xanh, phía sau có ngọn Hàm Long làm hậu chẫm. Chùa được phá thạch khai sơn vào năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) , đến nay chùa đã có tuổi đời hơn 170 năm .
Nhà văn hóa , nhà thơ, nhà văn đồng thời là thượng thư triều Nguyễn Phạm Quỳnh sinh năm 1892 tại Hà Nội . Ông là người đi tiên phong trong việc truyền bá chữ quốc ngữ và " người chiến đấu cho tự trị của Việt Nam, cho việc khôi phục quyền hành của Triều đình Huế trên cả ba kỳ và kiên trì chủ trương chủ nghĩa quốc gia với thuyết Quân chủ lập hiến" .Ông bị lực lượng Việt Minh bắt giam và sát hại vào năm 1945, di hài ông được tìm thấy trong khu rừng Hắc Thú và cải táng về chùa Vạn Phước cho đến hôm nay . Ông là thân sinh của GS.BS Phạm Khuê và nhạc sĩ Phạm Tuyên
Khu mộ cụ Phạm Quỳnh nằm ngay cổng vào của chùa Vạn Phước . Phía trước mộ là bức tượng bán thân của cụ mới được khánh thành vào tháng 5 năm nay .Trong khu lăng mộ còn dựng một cuốn thư khắc thủ bút và chữ ký của Cụ Phạm. Đó là những dòng Cụ Phạm viết ở biệt thự Hoa Đường vào sáng ngày 23/8/1945, trong bài tùy bút cuối cùng có tựa đề Cô Kiều với tôi :
“Tiếng là nước, có tiếng mới có nước, có quốc văn mới có quốc gia”
Bình phong dựng thêm cuốn thư, cũng bằng đá đen, khắc câu nói nổi tiếng :“Truyện Kiều còn, tiếng ta còn/ Tiếng ta còn, nước ta còn” bằng chữ Nôm và Quốc ngữ.
Đi vào sâu trong khuôn viên phía trước chùa,nằm lẫn trong hàng trăm ngôi mộ chen chúc nhau là phần mộ nhỏ của thi sĩ Phạm Hầu .
Phạm Hầu sinh ở Gò Nổi, xã Trừng Giang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.Ông là con Tiến sĩ Phạm Liệu, người đứng đầu nhóm Ngũ Phụng Tề Phi . Lúc nhỏ, ông học trường Quốc Học Huế, sau ra Hà Nội học tại trường Mỹ thuật Đông Dương .Do mắc chứng bệnh động kinh, ông nằm điều trị tại nhà thương Vôi ở Bắc Giang một thời gian rồi được chuyển về quê nhà, nhưng khi tàu hỏa đến đoạn Đồng Hới thì ông mất, hưởng dương 24 tuổi. Hôm ấy, là ngày 3 tháng 1 năm 1944. Về Phạm Hầu còn lưu truyền một giai thoại về mối tình của chàng công tử con quan thượng thư và tiểu thư Tôn Nữ Lệ Minh - hoa khôi của thành Huế thời đó . Mỗi lần nàng ra trước nhà quét lá rụng thì thấy những chiếc lá nào ngang tầm với của mình đều khắc dòng chữ " Tôi yêu Mừng " (tên ở nhà của cô Minh ) của chàng , nhưng tiếc là mối tình đó chẳng bao giờ thành ; cô gái ấy sau này cũng lấy một nhà thơ khác - đó là Lưu Trọng Lư .
Mộ Phạm Hầu thật sự rất khó tìm và phải nói nhờ chữ " duyên" mình mới tìm thấy được . Sau khi lang thang mỏi mệt mà vẫn chưa tìm ra , mình ngồi nghỉ bên một bức tường gạch cũ , bất chợt ngoảnh lại sau lưng thấy một cảnh cửa đóng kín và ổ khóa hoen rỉ , linh tính mách bảo sau cánh cửa đó có điều gì bí mật , vậy là vọt qua bức tường và vào trong khu mộ . Giữa những nấm mồ to nhỏ khác nhau, mộ thi sĩ Phạm Hầu khiên tốn nằm trong một góc khuất , không hương khói, cỏ dại mọc đầy , có lẽ lâu rồi không có ai đến đây chăm sóc . Trên bia mộ còn khắc những dòng trong bài thơ Vọng Hải Đài nổi tiếng của ông :
Chẳng biết trong lòng ghi những ai?
Thềm son từng bước gót vân hài.
Hỡi ôi! Người chỉ là du khách
Giây phút dừng chân Vọng Hải đài.
......
Lòng xiêu xiêu, hồn nức hương mai,
Rạng đông về thức giấc hoa nhài.
Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có những ai?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét