Thứ Ba, 13 tháng 9, 2016

LẨU NGHĨA LÀ GÌ

Hôm nay nhân đi ăn lễ 2/9 cùng mấy anh em trên cơ quan , có gọi một trong những món quen thuộc là Lẩu . Chắc ai cũng đã từng ăn Lẩu nhưng không mấy người biết ý nghĩa và nguồn gốc của từ này . Nói gần nói xa thôi thì trích luôn một đoạn trong quyển "Lột trần Việt Ngữ" của cố nhà văn , nhà nghiên cứu văn hóa Bình Nguyên Lộc :
LẨU. Đây là một danh từ ngộ nghĩnh nhứt vì sự phiêu lưu của nó và vì sự ngộ nhận của người miền Nam. Cũng cứ do người Triều Châu, lưu vong nhà Minh đưa vào miền Nam. Theo ta hiểu, thì lẩu là một món canh của Triều Châu, đựng trong một thứ bát đặc biệt bằng LAITON.
Nhưng không phải thế. Người Triều Châu gọi món đó là CANH ĐỰNG TRONG BÁT CÓ LẨU. Vậy lẩu chỉ là phụ tùng của món đựng, chớ không phải canh. Khi nghe một câu rất dài mà ta không hiểu, ta chỉ nhớ danh từ cuối cùng là Lẩu.
Ấy, LẨU cũng là tiếng Mã Lai Nam Dương mà chúng tôi mới ám chỉ trên đây. Người Nam Dương nói là PULÔ và dân ta biến thành Cù Lao, nhưng dân Mân Việt đọc theo cổ thời là LẨU.
Cái món đựng ấy như thế nầy. Nó giống hệt một cái bát lớn minh mông, bằng Laiton, nhưng giữa bát, có trồng một cái ống tròn cũng bằng Laiton. Canh đựng trong bát và được hâm nóng luôn luôn bằng nhờ hồng chất trong cái ống trồng giữa bát. Cái ống đó trông rất giống một hòn đảo, vì thế mà người Mân Việt mới gọi là canh đựng, nghĩa trong bát có lẩu, tức có PULO, tức có Cù Lao, tức có đảo ở giữa bát.
Đó là dụng cụ của các nước Sở, Ngô, U Việt, Mân Việt đời xưa chứ không phải của Trung Hoa.
Hết trích .
Vậy Lẩu thực chất để chỉ cục giữ nhiệt ở giữa chứ không phải là cả cái nồi . Giờ để tiện lợi hơn người ta đun nóng nồi bằng cồn , bếp gas ,... nên nồi Lẩu không còn hình dạng nguyên thủy như xưa , cục Lẩu như cù lao giữa nồi không còn nữa nhưng Lẩu vẫn cứ gọi là Lẩu thôi ^^ 


Có mấy thứ này đọc được thấy hay chia sẻ với mọi người về các món ăn thập cẩm của dân mình .
-Thứ nhất là HẨU LỐN ở miền Bắc . Thường thường sau những buổi cỗ bàn, cúng giỗ, các bà nội trợ miền Bắc hay nấu nồi Hẩu lốn. Tất cả các thứ đồ ăn còn lại của 
ngày hôm trước, đặc biệt là của ba ngày Tết, được đổ chung vào nồi, nấu thêm một lần nữa. Hẩu lốn là món ăn trong gia đình. Ít khi người ta thết đãi bạn bè bằng hẩu lốn. Trong thực đơn của các nhà hàng cũng không thấy món này.Hẩu lốn âm Hán Việt là hoả lô, tức là cái hoả lò. Theo tên gọi thì có thể suy ra rằng trong bữa ăn ngày xưa, nồi hẩu lốn được để trên hoả lò, đặt trước mặt mọi người. Về sau, để tránh cồng kềnh, người ta múc sẵn hẩu lốn ra bát lớn. Lúc ăn, không còn hoả lò và nồi trước mặt.
- Thứ đến là SÀ BẦN của người miền Nam , tương tự như hẩu lốn miền Bắc. Cũng như hẩu lốn, sà bần được nấu bằng nhiều thứ rau, thịt, cá còn thừa của bữa trước. Sà bần tương đương với hẩu lốn. Chỉ khác tên gọi và khẩu vị địa phương thôi.
Tại sao lại gọi là Sà bần ? Sà bần nghĩa là gì và từ đâu ra? Danh từ sà bần chưa có trong các từ điển. Sà bần có 2 nghĩa :
+ Các thứ sỏi đá, gạch ngói vụn, dùng để gia cố nền nhà, móng nhà.
+ Món ăn nấu lẫn lộn nhiều thứ.
Cái nền nhà, móng nhà được gia cố bằng lớp sỏi đá, gạch ngói vụn, trộn với vữa tiếng Pháp là soubassement. Người miền Nam đã Việt hoá 2 âm đầu của soubassement thành sà bần. Sỏi đá, gạch ngói vụn để làm nền nhà được thợ hồ miền Nam gọi là sà bần.
Khi làm nhà, phải đổ một lớp sà bần cho chắc móng. Món ăn nấu lẫn lộn nhiều thứ (thịt, cá, cà chua, khoai tây, tỏi tây v.v.) trông lổn nhổn như đống vật liệu xây cất kia nên được dân nhậu đặt tên là sà bần. Nghĩa rộng của sà bần là lộn xộn, rối rắm. Loạn sà bần ! Bấn sà bần !
- Tiếp nữa là LÂM VỐ - món ăn Tây thời Pháp thuộc ở miền Bắc . Lâm vố của vỉa hè Việt Nam là ” cơm thừa cá cặn ” của lính tây. Lâm vố là phiên âm của tiếng Pháp Rabiot. Từ điển Larousse định nghĩa Rabiot (danh từ) là : Vivres restant en excédent après la distribution (đồ ăn phân phát còn thừa).Lâm Vố là ” Những cái còn thừa sau bữa ăn ở các trại lính, người ta vun lại, quét lại, tống vào thùng, vào bao tải. Rồi quảy, rồi cho lên xe bò, kéo ra (…). Những đĩa sào đã được trút vào cái xô nhôm thành nồi sào tạp bí lù bạc nhạc, xương sườn xương sụn thịt nhả bã với cà chua, lổn nhổn hành tây, cần tây, lá xà lách. Nước súp cũng được dồn vào nồi ba mươi, thùng gỗ, thùng nứa ghép vẫn để gánh nước. Chẳng đun lại, đổ thêm hàng phạng nước máy, mà nồi canh vẫn sao mỡ vàng khè… “. (Tô Hoài, Chuyện cũ Hà Nội, Hà Nội, 1986, tr. 192-193).
- Tiếp nữa là TẠP PÍN LÙ . Tạp pín lù, âm hán việt là đả biên lô, tức là món ăn nấu chín gần bên lò lửa ; cũng như ăn sán lẩu là ăn thịt sống nhúng vào nước sôi bắt trên lò lửa nóng. Số là người Tây bày ra một từ khí bằng chì, thiếc, vật kim khí có chân cao giữa khoét lỗ đặt vài cục than cháy, chung quanh là nồi chứa nước thịt ngọt, khách ăn tự lựa từng món ngon : mề gà, lòng heo, ruột già, ruột non, dồi trường, tự gắp bằng đũa và nhúng vào nước thịt đang sôi, rồi tự gắp qua chén và, không cần biết món nhúng đã chín hay còn sống sượng “. (Vương Hồng Sển, Sài Gòn tạp pín lù, Văn Hoá, 1997, tr. 5).
- Cuồi cùng là CÙ LAO LỬA . Cù lao lửa (Vũ Bằng gọi là Cù lao hổ) ngoài Bắc, là đặc sản của một số hiệu ăn sang. Đồ ăn tươi được nấu ngay trên bàn ăn.
Cù lao lửa ban đầu là tên cái xoong dùng để nấu món ăn. Xoong hình máng, viền tròn xung quanh lò than. Toàn bộ trông như một cù lao nằm trên lò lửa. Cái xoong cù lao lửa còn có tên gọi khác là cái hoả thực.


NƠI YÊN NGHỈ CỦA HAI DANH NHÂN HỌ PHẠM

Hai danh nhân họ Phạm mình muốn nhắc đến ở đây là nhà văn hóa Phạm Quỳnh và thi sĩ tài hoa mệnh bạc Phạm Hầu và địa điểm là chùa Vạn Phước .
Chùa Vạn Phước toạ lạc trên đỉnh núi Bình An, thuộc phường Trường An, thành phố Huế trong một con hẻm nhỏ trên đường Điện Biên Phủ. Chùa quay mặt về hướng Tây Nam, xa xa có núi Thiên Thai làm tiền án, phía trước có khe suối Tiên quanh năm nước chảy trong xanh, phía sau có ngọn Hàm Long làm hậu chẫm. Chùa được phá thạch khai sơn vào năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) , đến nay chùa đã có tuổi đời hơn 170 năm . 
Nhà văn hóa , nhà thơ, nhà văn đồng thời là thượng thư triều Nguyễn Phạm Quỳnh sinh năm 1892 tại Hà Nội . Ông là người đi tiên phong trong việc truyền bá chữ quốc ngữ và " người chiến đấu cho tự trị của Việt Nam, cho việc khôi phục quyền hành của Triều đình Huế trên cả ba kỳ và kiên trì chủ trương chủ nghĩa quốc gia với thuyết Quân chủ lập hiến" .Ông bị lực lượng Việt Minh bắt giam và sát hại vào năm 1945, di hài ông được tìm thấy trong khu rừng Hắc Thú và cải táng về chùa Vạn Phước cho đến hôm nay . Ông là thân sinh của GS.BS Phạm Khuê và nhạc sĩ Phạm Tuyên 
Khu mộ cụ Phạm Quỳnh nằm ngay cổng vào của chùa Vạn Phước . Phía trước mộ là bức tượng bán thân của cụ mới được khánh thành vào tháng 5 năm nay .Trong khu lăng mộ còn dựng một cuốn thư khắc thủ bút và chữ ký của Cụ Phạm. Đó là những dòng Cụ Phạm viết ở biệt thự Hoa Đường vào sáng ngày 23/8/1945, trong bài tùy bút cuối cùng có tựa đề Cô Kiều với tôi :
“Tiếng là nước, có tiếng mới có nước, có quốc văn mới có quốc gia”
Bình phong dựng thêm cuốn thư, cũng bằng đá đen, khắc câu nói nổi tiếng :“Truyện Kiều còn, tiếng ta còn/ Tiếng ta còn, nước ta còn” bằng chữ Nôm và Quốc ngữ.
Đi vào sâu trong khuôn viên phía trước chùa,nằm lẫn trong hàng trăm ngôi mộ chen chúc nhau là phần mộ nhỏ của thi sĩ Phạm Hầu .
Phạm Hầu sinh ở Gò Nổi, xã Trừng Giang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.Ông là con Tiến sĩ Phạm Liệu, người đứng đầu nhóm Ngũ Phụng Tề Phi . Lúc nhỏ, ông học trường Quốc Học Huế, sau ra Hà Nội học tại trường Mỹ thuật Đông Dương .Do mắc chứng bệnh động kinh, ông nằm điều trị tại nhà thương Vôi ở Bắc Giang một thời gian rồi được chuyển về quê nhà, nhưng khi tàu hỏa đến đoạn Đồng Hới thì ông mất, hưởng dương 24 tuổi. Hôm ấy, là ngày 3 tháng 1 năm 1944. Về Phạm Hầu còn lưu truyền một giai thoại về mối tình của chàng công tử con quan thượng thư và tiểu thư Tôn Nữ Lệ Minh - hoa khôi của thành Huế thời đó . Mỗi lần nàng ra trước nhà quét lá rụng thì thấy những chiếc lá nào ngang tầm với của mình đều khắc dòng chữ " Tôi yêu Mừng " (tên ở nhà của cô Minh ) của chàng , nhưng tiếc là mối tình đó chẳng bao giờ thành ; cô gái ấy sau này cũng lấy một nhà thơ khác - đó là Lưu Trọng Lư .
Mộ Phạm Hầu thật sự rất khó tìm và phải nói nhờ chữ " duyên" mình mới tìm thấy được . Sau khi lang thang mỏi mệt mà vẫn chưa tìm ra , mình ngồi nghỉ bên một bức tường gạch cũ , bất chợt ngoảnh lại sau lưng thấy một cảnh cửa đóng kín và ổ khóa hoen rỉ , linh tính mách bảo sau cánh cửa đó có điều gì bí mật , vậy là vọt qua bức tường và vào trong khu mộ . Giữa những nấm mồ to nhỏ khác nhau, mộ thi sĩ Phạm Hầu khiên tốn nằm trong một góc khuất , không hương khói, cỏ dại mọc đầy , có lẽ lâu rồi không có ai đến đây chăm sóc . Trên bia mộ còn khắc những dòng trong bài thơ Vọng Hải Đài nổi tiếng của ông : 
Chẳng biết trong lòng ghi những ai?
Thềm son từng bước gót vân hài.
Hỡi ôi! Người chỉ là du khách
Giây phút dừng chân Vọng Hải đài.
......
Lòng xiêu xiêu, hồn nức hương mai,
Rạng đông về thức giấc hoa nhài.
Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có những ai?