Thứ Năm, 22 tháng 12, 2016

Mười hóa thân của thần Visnu

1.    Cá Matsya
Cá Matsya là hóa thân đầu tiên của Vishnu, có phần trên giống Vishnu, phần dưới giống cá, có 4 tay với các biểu tượng đặc biệt. Matsya giúp tổ tiên của loài người là Manu lấy lại kinh Veda đã bị quỷ của tạo hóa ăn cắp và mang xuống đại dương. Thần đã báo trước cho Manu về nạn Đại hồng thủy, khuyên đóng một con thuyền, rồi biến thành cá dẫn đường cho thuyền đến bến bờ yên tĩnh và bắt đầu tạo lập một thế giới mới.

2.    Rùa thần Kurma
Người ta tin rằng tội lỗi con người sẽ tăng lên theo cấp số nhân, trong khi đạo đức mờ dần và ngừng phát triển. Nhiều người có ý nguyện phá vỡ cái không khí vô minh này thật sớm. Nhân loại tàn phá thiên nhiên vì phục vụ đô thị hóa. Họ trở thành con nghiện các thứ chất say. Cái tốt và cái xấu được cân bằng, Tuy nhiên, đôi khi số lượng cái ác nhiều hơn. Và Thiên Chúa giáng xuống trần gian để loại bỏ bất công, kẻ lỗi lầm bị trừng phạt. Đây là hóa thân thứ hai trong mười hóa thân của Ngài.
Trong hóa thân Matsya, thần Vishnu tối cao sẽ mang pháp thân của một con cá và gìn giữ thế giới khỏi sự hủy diệt và kiềm hãm vô minh phát triển. Ngài chiến đấu với con thủy quái màu đỏ, giành lại các kinh sách Veda của Phạm Thiên. Trước đó, con thủy quái này đã đánh cắp các kinh sách Veda và dấu dưới nước.
Nhưng hòa bình ấy tồn tại chẳng được lâu. Thế giới lại một lần nữa phải đối mặt với khổ đau. Các chư Thiên và Asuras luôn luôn trong tâm trí chiến tranh. Cuộc chiến xảy ra, thần Demi có nguy cơ thất bại. Một thỏa thuận hòa bình được thực hiện; các chư Thiên và Asuras đồng ý khuấy biển sữa để lấy mật hoa thiêng liêng – loại nước cam lồ làm bất tử. Vào thời điểm đó, Vishnu hóa thân thành một con rùa, tức là Kurma Avatar, để hỗ trợ các ngọn núi.
Mandara nhờ Churn Dasher và Vasuki, vua của loài rắn biến thành sợi dây thừng để khuấy sữa. Sau đó thần Maha Vishnu biến thành Mohini – một thiếu nữ duyên dáng – tìm đến các ác thần Asuras và làm xao động tâm trí họ; cho nên bọn họ không uống được mật hoa. Các Chư Thiên uống được mật hoa và trở thành bất tử, Chân Lý một lần nữa trở lại. Người ta tin rằng thần Rahu và Ketu đã nếm chút mật hoa. Thái Dương Thần và Nguyệt Tinh đã báo cho Vishnu biết điều này. Với sự giúp đỡ của họ, Vishnu đã cắt đầu của Rahu và Ketu, nhưng do đã dùng mật hoa nên các phần khác của cơ thể họ vẫn còn sống. Sau đó, Rahu và Ketu được ghép bằng đầu và cơ thể của một con rắn. Người ta tin rằng trong thời gian nhật thực, Rahu và Ketu ăn một phần cơ thể của Mặt Trời và Mặt Trăng để trả thù xưa.
3.    Hóa thành heo rừng Varaha – Vishnu cứu trái đất khỏi cơn đại hồng thủy.
Vishnu hiện thân với hình dáng thân người, đầu heo, có 4 tay. “Đây là một biểu tượng trần thế hay nói đúng hơn là một vị thần trần thế” [Veda 3;59]. Sau nhiều năm, một con quỷ có tên là Hirayaksha lại nhấn thế giới chìm sâu vào đại dương. Thần Narayana đến trong hình dạng của Varaha và giải cứu trái đất. Hiranyakasipu là em trai của Hiranyaksha. Hắn cũng không khác từ người anh em cùng chí hướng tà tâm. Hắn ghét Narayana và không cho phép bất cứ ai thờ phụng Narayana. Tuy nhiên, Prahlad – con trai hắn – là một tín đồ Vishnu. Hiranyakasipu cảnh báo con trai mình không tôn thờ thầnVishnu. Nhưng Prahlad đã không lắng nghe cha. Tức giận vì con trai không nghe lời, hắn quyết định giết mình. Hắn hỏi con trai: Vishnu hiện nay ở đâu? Prahlad bình tĩnh trả lời: “Ngài có mặt ở khắp nơi “. Thất vọng và tức giận, Hiranyakasipu điều tra xem Vishnu ở đâu và biết Ngài ở bên trong trụ đá gần ngai vàng của mình. Hiranyakasipu phá vỡ các cột trụ và Vishnu xuất hiện ở dạng nửa người nửa sư tử, tức là Narasimha. Theo thần thoại, Varaha đã lặn xuống đáy đại dương, dùng mõm của mình nâng nữ thần Trái đất Bkhumi-devi đang bị con quỷ Hiranyaksa nhấn chìm xuống nước nguyên sinh, sau một trận đánh kéo dài hàng nghìn năm với quỷ dữ. Nhờ việc cứu được nữ thần Trái đất, Vishnu trở thành người có công tạo ra đất đai cho lục địa Ấn Độ. Varaha cũng có các vợ như Vishnu nhưng nữ thần Trái đất thường gặp nhiều hơn người vợ quen thuộc là nữ thần Laskmi. Trong nghệ thuật tạc tượng Varaha thường được tạc ở bốn vị trí: 1. Đứng một mình, đặt tay lên đùi; 2. Đứng ôm vợ Bkhumi-devi; 3. Đang ngồi trên mũ tu sĩ của rắn Adisesa; 4. Ngồi trên đài ở tư thế Sukkh-asana với Bkhumi-devi hay Laskmi trên đùi.

4.    Vamana chiến thắng Maha Bali.
Trong hóa thân tiếp theo, Vishnu có pháp thân là Vamana, một vị Bà-la-môn thấp lùn. Vua Maha Bali là một người tốt. Tuy nhiên, gã là một Asuran, luôn có thái độ xấu đối với Chư Thiên và muốn thắng họ. Để đạt được một vị trí trên trời, ông thực hiện Ashwamedha Yagam. Maha Bali thực hiện Ashwamedha Yagam và bố thí tài sản cho những Bà la môn và người nghèo. Vishnu cải trang thành một bà la môn tên là Vamana, và yêu cầu được nhận ba cái đạp lên đầu. Maha xem thường gã lùn, nhưng cũng đồng ý thực hiện yêu cầu nhỏ nhặt đó. Sukracharaya – thầy của hắn – trốn trong bình nước nhắc nhở, gã lùn kia không ai khác chính là Vishnu, người tìm đến để thử lòng khiêm nhường của gã. Sukracharaya hóa thành côn trùng và chui vào vòi nước để mách nước học trò, nhưng Maha Bali lại quên khuấy khi cầm cái bình có nước thay vì bình rỗng. Nước trong bình bị đổ ra, Sukracharya biến thành con ong để ngăn nước chảy ra ngoài, nhưng Vamana sử dụng “dharbai” để thông rỗng, và Sukracharya bị thương ở mắt. Một khi Bali Maha tận tình bố thí, Vamana cho gã thấy nhiều hình thức thật của mình. Gã mở rộng lòng mình và giữ một chân trên trái đất và một bước trên trời. Bali biết rằng gã vượt ra ngoài Bản Ngã và đề nghị thực hiện nghi thức thứ ba. Trong hóa thân này Vishnu này cho thấy Ngài là tối cao và mạnh nhất.
Đây là lần hóa thân thành người đầu tiên của Vishnu và lập được chiến công rực rỡ khi đánh bại tên quỷ vương Bali bạo ngược đang cai quản cả ba cõi khi ấy. Vishnu đã hạ giới mang hình hài một người lùn, giả dạng thành một người nông dân đến cầu xin vua Bali cho một khoảng đất rộng bằng ba bước chân. Bali đồng ý, Vamana bất ngờ vươn mình thành người khổng lồ, bước 3 bước hết cả ba cõi vũ trụ: thế gian – thiên đường – địa ngục. Tuy nhiên, thật ra bởi bản chất Bali không phải là một ông vua xấu xa nên Vishnu đã trả ông ta về vương quốc Patala – một cõi còn tuyệt vời hơn cả thiên đường. Với thần tích này Vishnu còn được mệnh danh là “Người chinh phục vũ trụ bằng 3 bước đi” (Trivikrama) và hình tượng bàn chân cũng trở thành một biểu tượng quen thuộc của thần Vishnu. Đồng thời cũng cho thấy tính cách vị tha, nhân hậu của vị thần này.
5.    Nhân sư Narasimha
Nhân sư Narasimha là hóa thân của Vishnu nhằm tiêu diệt vua quỷ Hiranyakasipu ngạo mạn (anh của quỷ Hiranyaksa) chuyên gieo rắc tai họa cho trần thế. Không ai có thể tiêu diệt được nó, bất kể là con người hay thần thánh, bất kể ngày hay đêm vì nó đã được Brahma che chở. Vishnu đã dùng mưu lừa được vua quỷ ra khỏi tòa lâu đài và hiện ra dưới hình dáng nhân sư Narasimha, xé xác vua quỷ ra từng mảnh. Với hóa thân này, Vishnu thường hiện thân với hình tượng thân người đầu sư tử. Theo nguyên tiếu tượng, nhân sư có từ 4 đến  16 tay, 2 tay trên gấp khuỷu lại, nâng thẳng lên cao và đỡ các biểu tượng bình thường, 2 tay dưới được vũ trang bởi những móng. Nhưng đôi khi Narasimha ngồi trên đài ở tư thế đang tư duy, 2 chân thõng xuống, 2 tay trên đan ngón vào nhau đặt dưới cằm, 2 tay khác với ngón có móng giơ lên, gấp khuỷu và nâng thẳng. Mũ và tất cả các đồ trang sức của nhân sư cũng giống của Vishnu.
6.    Parashu Rama – Rama cầm rìu
Với hình dáng một người đàn ông có râu, 2 tay cầm cung và cầm rìu chiến (parasu), Vishnu được sinh ra làm một nhà thuyết pháp đồng thời cũng là một chiến binh. Parashurama thay mặt các vị thần lập lại trật tự trong xã hội, tránh sự chuyên quyền của tầng lớp chiến binh Kshatriya lúc bấy giờ và trả lại ưu thế cho tầng lớp Brahman vì các thần cho rằng để cho những nhà thuyết pháp cai quản thì thế gian sẽ công bằng và bình yên hơn. Parashurama đã 21 lần tiêu diệt các chiến binh Kshatriya để lấy lại uy quyền cho đẳng cấp Brahma. Thần tích này có lẽ xuất hiện hơi muộn, khoảng đầu thế kỉ I TCN với dụng ý đề cao tầng lớp Brahman, hạ thấp vai trò tầng lớp võ sĩ, Kshatriya, trong hệ thống đẳng cấp Varna. Vì thế, hiện nay, Parashurama được những người theo Brahman tôn thờ chủ yếu ở Nam Ấn.

7.    Rama Chandra
Chandra có nghĩa là ánh trăng, Rama ánh trăng hay Rama dịu dàng, trái ngược với chàng Rama Parashu hiếu chiến. Nhưng trong lần hóa thân thứ sáu thì chàng Rama cầm rìu còn Rama trong lần hóa thân thứ bảy này thì cầm cung làm vật tượng trưng. Đây là hóa thân của Vishnu trần tục nhất, hạ giới xuống trần gian với mục đích tiêu diệt quỷ Ravana và thuộc hạ của nó để giải cứu cho nàng Sita xinh đẹp. Thần tích này trở thành cốt truyện của sử thi Ramayana nổi tiếng. Trong nghệ thuật tiếu tượng Ấn Độ, Rama được mô tả như một người lính, với cây cung lớn và ống đựng mữi tên, đầu đội vương miện giống Vishnu, thường đứng bên cạnh người vợ xinh đẹp là nàng Sita và người anh trai tận tụy là Laksman, đôi khi có cả đồng minh trung thành của chàng là khỉ Hanuman.

8.    Thần Krisna
Là một hóa thân rất quan trọng và rất nổi tiếng của Vishnu dưới hình tượng một nhân vật anh hùng, được kể trong Bhagabatapurana, truyện Harivamsa và được kể lại trong sử thi Mahabharata. Theo thần thoại Hindu giáo, Krisna rất được yêu mến trong số các vị thần Ấn Độ. Một số người theo phái thờ Krisna cho rằng Krisna không phải là hóa thân của Vishnu mà chính là Vishnu. Nhưng có lẽ vì Vishnu được sinh ra từ một người mẹ trần thế nên được xem như một hóa thân, tức là một con người với ngoại hình trần tục, thân thể máu thịt của người nhưng linh hồn của thần linh.

9.    Lord Budda (đức Phật)
Vishnu hóa thân thành thái tử Sakyamuni – một nhân vật có thật trong lịch sử Ấn Độ và là người sáng lập ra đạo Phật. Hàng thế kỉ trôi qua sau cái chết của mình, gương mặt lịch sử này từ đời thực bước vào thần thoại Ấn Độ sau khi Phật giáo không còn được xem là mối nguy hiểm với Hinđu giáo nữa. Đức Phật được công nhận là hóa thân thứ chín của Vishnu và được tôn thờ trang trọng trong hệ thống thần linh Ấn Độ.

10.    Ngựa Kalkin
Đây là hóa thân cuối cùng của thần Vishnu. Theo thần thoại Ấn Độ, khi kết thúc một chu kì của vũ trụ, Vishnu sẽ trở lại thế gian, cưỡi trên một con ngựa trắng cùng với thanh gươm rực rỡ của mình để hủy diệt những con quỷ cuối cùng và những con người độc ác còn sót lại trước khi thế giới được thiết lập lại. Trong nghệ thuật tiếu tượng thường ít gặp hình ảnh của Kalkin nhưng hình ảnh một con ngựa có cánh đôi khi cũng được coi là biểu tượng của lần hóa kiếp này.

Có thể khẳng định rằng, bên cạnh ý nghĩa về lịch sử, những hóa thân của thần Vishnu mang ý nghĩa quan trọng trong đời sống tín ngưỡng, tâm linh của người Hindu. Về sau này còn nói đến nhiều lần giáng thế hơn, có tới 22 lần hoặc thậm chí là vô số lần. Nhiều nhân vật khác trong thần thoại Ấn Độ cũng là những hóa thân của Vishnu hoặc mang đậm tính cách của thần như thần Purusha – con người đầu tiên; Nara, Narada hay Narayana là tên của những nhà hiền triết, lãnh tụ tinh thần nổi tiếng của người Hindu. Ngài còn được biểu hiện dưới những hình tượng đẹp đẽ khác như: Kama – thần tình yêu, Varadaradza – ân nhân vĩ đại, hay đức chúa trời Vaikhuntkha. Đôi khi Vishnu còn xuất hiện với tư cách là một vị thần y của Ấn Độ dưới hình dáng một người phụ nữ xinh đẹp tay mang thần dược.
Ngày nay, khi đời sống tâm linh càng trở nên phong phú thì sự thể hiện của Ngài không chỉ đối với người Ấn Hindu theo giáo phái Vaishnava mà nó đã vượt ra phạm vi của một quốc gia. Hình tượng của Thần không chỉ thể hiện trong nghệ thuật điêu khắc, kiến trúc đền đài mà cả ở trong văn chương. Trong sử thi Ramayana với 24.000 câu thơ đôi (sloka) với thần Vishnu hóa thân làm hoàng tử Rama đã trở thành những dị bản văn học có vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa của nhiều dân tộc. Rama lấy vợ là Sita (nghĩa là luống cày), bị thế lực tham quyền gạt ra khỏi ngôi báu phải vào rừng sống biệt lập 14 năm, đối mặt với quỷ vương Ravana, trải qua nhiều thảm nạn và đem đến những bài học lớn cho nhân loại. Những bài hát vang lên hai bờ sông Hằng về hóa thân của thần Vishnu ấy đã có sức truyền cảm mãnh liệt vượt không gian và thời gian, không những đi vào hàng triệu trái tim người dân Ấn Độ mà còn vào tận đáy lòng của hàng triệu người ở châu Á, ở Tây Tạng, ở Mông Cổ và nhất là ở các dân tộc Đông Nam Á. Ở Lào, ở Campuchia, ở Indonesia, ở Thái Lan, ở dân tộc Chăm và ở Việt Nam

Thứ Hai, 3 tháng 10, 2016

VIẾNG MỘ NHÀ VĂN NHẤT LINH

Chắc có lẽ nhiều người bất ngờ khi mình nói mộ nhà văn chủ bút của nhóm Tự Lực Văn Đoàn - Nhất Linh ở tại Quảng Nam , và cụ thể là Hội An . Tìm kiếm trên mạng về nơi yên nghỉ của nhà văn Nhất Linh hầu như rất ít thông tin , chỉ có một bài viết nói mộ nhà văn đang ở nghĩa trang nhân dân Hội An . Vậy là sau khi đi thăm nhà thờ tộc Nguyễn Tường vào buổi sáng , mình cùng người "bạn già" là bác Đinh Trọng Tuyên nhằm thẳng hướng trên bản đồ. Nhưng giữa bạt ngàn những nấm mồ thì tìm mộ thi nhân quả là khó , nếu như không có sự giúp đỡ của anh Dương Tấn Hùng , đồng thời cũng là một độc giả yêu thích thơ văn Tự Lực Văn Đoàn thì có lẽ không biết bao giờ mới tìm thấy . Nhân đây cũng xin chỉ dẫn cho các bạn để tiện tìm kiếm nếu muốn viếng mộ . Từ cổng vào đường Nguyễn Tất Thành đi thêm khoảng 50m , nhìn bên tay trái sẽ thấy một khu mộ rộng có ghi " nghĩa trang Cao Đài" , rẽ tay trái đi dọc theo đến cuối nghĩa trang sẽ có một khu mộ khác có cổng ghi " nghĩa trang tộc Nguyễn Tường - Phái I " . Vậy là đã đến đúng nơi.
Xin được nhắc lại đôi chút về lịch sử
Binh bộ thượng thư Nhuận Trạch Hầu Nguyễn Tường Vân làm quan dưới hai triều Gia Long và Minh Mạng , ông có hai bà vợ , trong đó bà thứ thất sinh được 4 người con trai trong đó có ông Nguyễn Tường Phồ , ông Nguyễn Tường Phổ sinh trưởng nam Nguyễn Tường Trấp , ông này có một con trai duy nhất là Nguyễn Tường Nhu - đây chính là thân sinh của ba nhà văn nổi tiếng Nhất Linh , Hoàng Đạo và Thạch Lam .
Nhất Linh như đúng cái tên của ông - Nguyễn Tường Tam - là con thứ ba trong gia đình . Ông là người thành lập và là cây bút chính của nhóm Tự Lực Văn Đoàn , từng là chủ bút của tờ báo Phong Hóa , Ngày Nay ,ông còn là người sáng lập Đại Việt Dân chính Đảng, từng làm Bí thư trưởng của Việt Nam Quốc dân Đảng (khi Đại Việt Dân chính Đảng hợp nhất với Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng) và giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến. Ngoài viết văn và tham gia chính trị , ông còn là một họa sĩ .
Trở lại với phần mộ của nhà văn . Không tương xứng với tên tuổi và tài năng , phần mộ của ông đơn sơ nhỏ nhắn kề bên cạnh người vợ Phạm Thị Nguyên cùng những nhân vật khác trong tộc họ Nguyễn Tường , hương khói lạnh lẽo , nước sơn trên bia mộ nhạt nhòa theo tháng năm
Sè sè nắm đất bên đường
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh
Những cây nhang nhỏ bé không biết có sưởi ấm được lòng người đã khuất dưới kia không nhưng cũng làm lòng người đi viếng ấm lại . Chúng tôi ra về và chắc chắn sẽ có ngày quay trở lại . Nắng chiều đã nhạt dần ...
Tối nay sẽ bắt đầu chương I tiểu thuyết Dòng sông Thanh Thủy của Nhất Linh










Thứ Ba, 13 tháng 9, 2016

LẨU NGHĨA LÀ GÌ

Hôm nay nhân đi ăn lễ 2/9 cùng mấy anh em trên cơ quan , có gọi một trong những món quen thuộc là Lẩu . Chắc ai cũng đã từng ăn Lẩu nhưng không mấy người biết ý nghĩa và nguồn gốc của từ này . Nói gần nói xa thôi thì trích luôn một đoạn trong quyển "Lột trần Việt Ngữ" của cố nhà văn , nhà nghiên cứu văn hóa Bình Nguyên Lộc :
LẨU. Đây là một danh từ ngộ nghĩnh nhứt vì sự phiêu lưu của nó và vì sự ngộ nhận của người miền Nam. Cũng cứ do người Triều Châu, lưu vong nhà Minh đưa vào miền Nam. Theo ta hiểu, thì lẩu là một món canh của Triều Châu, đựng trong một thứ bát đặc biệt bằng LAITON.
Nhưng không phải thế. Người Triều Châu gọi món đó là CANH ĐỰNG TRONG BÁT CÓ LẨU. Vậy lẩu chỉ là phụ tùng của món đựng, chớ không phải canh. Khi nghe một câu rất dài mà ta không hiểu, ta chỉ nhớ danh từ cuối cùng là Lẩu.
Ấy, LẨU cũng là tiếng Mã Lai Nam Dương mà chúng tôi mới ám chỉ trên đây. Người Nam Dương nói là PULÔ và dân ta biến thành Cù Lao, nhưng dân Mân Việt đọc theo cổ thời là LẨU.
Cái món đựng ấy như thế nầy. Nó giống hệt một cái bát lớn minh mông, bằng Laiton, nhưng giữa bát, có trồng một cái ống tròn cũng bằng Laiton. Canh đựng trong bát và được hâm nóng luôn luôn bằng nhờ hồng chất trong cái ống trồng giữa bát. Cái ống đó trông rất giống một hòn đảo, vì thế mà người Mân Việt mới gọi là canh đựng, nghĩa trong bát có lẩu, tức có PULO, tức có Cù Lao, tức có đảo ở giữa bát.
Đó là dụng cụ của các nước Sở, Ngô, U Việt, Mân Việt đời xưa chứ không phải của Trung Hoa.
Hết trích .
Vậy Lẩu thực chất để chỉ cục giữ nhiệt ở giữa chứ không phải là cả cái nồi . Giờ để tiện lợi hơn người ta đun nóng nồi bằng cồn , bếp gas ,... nên nồi Lẩu không còn hình dạng nguyên thủy như xưa , cục Lẩu như cù lao giữa nồi không còn nữa nhưng Lẩu vẫn cứ gọi là Lẩu thôi ^^ 


Có mấy thứ này đọc được thấy hay chia sẻ với mọi người về các món ăn thập cẩm của dân mình .
-Thứ nhất là HẨU LỐN ở miền Bắc . Thường thường sau những buổi cỗ bàn, cúng giỗ, các bà nội trợ miền Bắc hay nấu nồi Hẩu lốn. Tất cả các thứ đồ ăn còn lại của 
ngày hôm trước, đặc biệt là của ba ngày Tết, được đổ chung vào nồi, nấu thêm một lần nữa. Hẩu lốn là món ăn trong gia đình. Ít khi người ta thết đãi bạn bè bằng hẩu lốn. Trong thực đơn của các nhà hàng cũng không thấy món này.Hẩu lốn âm Hán Việt là hoả lô, tức là cái hoả lò. Theo tên gọi thì có thể suy ra rằng trong bữa ăn ngày xưa, nồi hẩu lốn được để trên hoả lò, đặt trước mặt mọi người. Về sau, để tránh cồng kềnh, người ta múc sẵn hẩu lốn ra bát lớn. Lúc ăn, không còn hoả lò và nồi trước mặt.
- Thứ đến là SÀ BẦN của người miền Nam , tương tự như hẩu lốn miền Bắc. Cũng như hẩu lốn, sà bần được nấu bằng nhiều thứ rau, thịt, cá còn thừa của bữa trước. Sà bần tương đương với hẩu lốn. Chỉ khác tên gọi và khẩu vị địa phương thôi.
Tại sao lại gọi là Sà bần ? Sà bần nghĩa là gì và từ đâu ra? Danh từ sà bần chưa có trong các từ điển. Sà bần có 2 nghĩa :
+ Các thứ sỏi đá, gạch ngói vụn, dùng để gia cố nền nhà, móng nhà.
+ Món ăn nấu lẫn lộn nhiều thứ.
Cái nền nhà, móng nhà được gia cố bằng lớp sỏi đá, gạch ngói vụn, trộn với vữa tiếng Pháp là soubassement. Người miền Nam đã Việt hoá 2 âm đầu của soubassement thành sà bần. Sỏi đá, gạch ngói vụn để làm nền nhà được thợ hồ miền Nam gọi là sà bần.
Khi làm nhà, phải đổ một lớp sà bần cho chắc móng. Món ăn nấu lẫn lộn nhiều thứ (thịt, cá, cà chua, khoai tây, tỏi tây v.v.) trông lổn nhổn như đống vật liệu xây cất kia nên được dân nhậu đặt tên là sà bần. Nghĩa rộng của sà bần là lộn xộn, rối rắm. Loạn sà bần ! Bấn sà bần !
- Tiếp nữa là LÂM VỐ - món ăn Tây thời Pháp thuộc ở miền Bắc . Lâm vố của vỉa hè Việt Nam là ” cơm thừa cá cặn ” của lính tây. Lâm vố là phiên âm của tiếng Pháp Rabiot. Từ điển Larousse định nghĩa Rabiot (danh từ) là : Vivres restant en excédent après la distribution (đồ ăn phân phát còn thừa).Lâm Vố là ” Những cái còn thừa sau bữa ăn ở các trại lính, người ta vun lại, quét lại, tống vào thùng, vào bao tải. Rồi quảy, rồi cho lên xe bò, kéo ra (…). Những đĩa sào đã được trút vào cái xô nhôm thành nồi sào tạp bí lù bạc nhạc, xương sườn xương sụn thịt nhả bã với cà chua, lổn nhổn hành tây, cần tây, lá xà lách. Nước súp cũng được dồn vào nồi ba mươi, thùng gỗ, thùng nứa ghép vẫn để gánh nước. Chẳng đun lại, đổ thêm hàng phạng nước máy, mà nồi canh vẫn sao mỡ vàng khè… “. (Tô Hoài, Chuyện cũ Hà Nội, Hà Nội, 1986, tr. 192-193).
- Tiếp nữa là TẠP PÍN LÙ . Tạp pín lù, âm hán việt là đả biên lô, tức là món ăn nấu chín gần bên lò lửa ; cũng như ăn sán lẩu là ăn thịt sống nhúng vào nước sôi bắt trên lò lửa nóng. Số là người Tây bày ra một từ khí bằng chì, thiếc, vật kim khí có chân cao giữa khoét lỗ đặt vài cục than cháy, chung quanh là nồi chứa nước thịt ngọt, khách ăn tự lựa từng món ngon : mề gà, lòng heo, ruột già, ruột non, dồi trường, tự gắp bằng đũa và nhúng vào nước thịt đang sôi, rồi tự gắp qua chén và, không cần biết món nhúng đã chín hay còn sống sượng “. (Vương Hồng Sển, Sài Gòn tạp pín lù, Văn Hoá, 1997, tr. 5).
- Cuồi cùng là CÙ LAO LỬA . Cù lao lửa (Vũ Bằng gọi là Cù lao hổ) ngoài Bắc, là đặc sản của một số hiệu ăn sang. Đồ ăn tươi được nấu ngay trên bàn ăn.
Cù lao lửa ban đầu là tên cái xoong dùng để nấu món ăn. Xoong hình máng, viền tròn xung quanh lò than. Toàn bộ trông như một cù lao nằm trên lò lửa. Cái xoong cù lao lửa còn có tên gọi khác là cái hoả thực.


NƠI YÊN NGHỈ CỦA HAI DANH NHÂN HỌ PHẠM

Hai danh nhân họ Phạm mình muốn nhắc đến ở đây là nhà văn hóa Phạm Quỳnh và thi sĩ tài hoa mệnh bạc Phạm Hầu và địa điểm là chùa Vạn Phước .
Chùa Vạn Phước toạ lạc trên đỉnh núi Bình An, thuộc phường Trường An, thành phố Huế trong một con hẻm nhỏ trên đường Điện Biên Phủ. Chùa quay mặt về hướng Tây Nam, xa xa có núi Thiên Thai làm tiền án, phía trước có khe suối Tiên quanh năm nước chảy trong xanh, phía sau có ngọn Hàm Long làm hậu chẫm. Chùa được phá thạch khai sơn vào năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) , đến nay chùa đã có tuổi đời hơn 170 năm . 
Nhà văn hóa , nhà thơ, nhà văn đồng thời là thượng thư triều Nguyễn Phạm Quỳnh sinh năm 1892 tại Hà Nội . Ông là người đi tiên phong trong việc truyền bá chữ quốc ngữ và " người chiến đấu cho tự trị của Việt Nam, cho việc khôi phục quyền hành của Triều đình Huế trên cả ba kỳ và kiên trì chủ trương chủ nghĩa quốc gia với thuyết Quân chủ lập hiến" .Ông bị lực lượng Việt Minh bắt giam và sát hại vào năm 1945, di hài ông được tìm thấy trong khu rừng Hắc Thú và cải táng về chùa Vạn Phước cho đến hôm nay . Ông là thân sinh của GS.BS Phạm Khuê và nhạc sĩ Phạm Tuyên 
Khu mộ cụ Phạm Quỳnh nằm ngay cổng vào của chùa Vạn Phước . Phía trước mộ là bức tượng bán thân của cụ mới được khánh thành vào tháng 5 năm nay .Trong khu lăng mộ còn dựng một cuốn thư khắc thủ bút và chữ ký của Cụ Phạm. Đó là những dòng Cụ Phạm viết ở biệt thự Hoa Đường vào sáng ngày 23/8/1945, trong bài tùy bút cuối cùng có tựa đề Cô Kiều với tôi :
“Tiếng là nước, có tiếng mới có nước, có quốc văn mới có quốc gia”
Bình phong dựng thêm cuốn thư, cũng bằng đá đen, khắc câu nói nổi tiếng :“Truyện Kiều còn, tiếng ta còn/ Tiếng ta còn, nước ta còn” bằng chữ Nôm và Quốc ngữ.
Đi vào sâu trong khuôn viên phía trước chùa,nằm lẫn trong hàng trăm ngôi mộ chen chúc nhau là phần mộ nhỏ của thi sĩ Phạm Hầu .
Phạm Hầu sinh ở Gò Nổi, xã Trừng Giang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.Ông là con Tiến sĩ Phạm Liệu, người đứng đầu nhóm Ngũ Phụng Tề Phi . Lúc nhỏ, ông học trường Quốc Học Huế, sau ra Hà Nội học tại trường Mỹ thuật Đông Dương .Do mắc chứng bệnh động kinh, ông nằm điều trị tại nhà thương Vôi ở Bắc Giang một thời gian rồi được chuyển về quê nhà, nhưng khi tàu hỏa đến đoạn Đồng Hới thì ông mất, hưởng dương 24 tuổi. Hôm ấy, là ngày 3 tháng 1 năm 1944. Về Phạm Hầu còn lưu truyền một giai thoại về mối tình của chàng công tử con quan thượng thư và tiểu thư Tôn Nữ Lệ Minh - hoa khôi của thành Huế thời đó . Mỗi lần nàng ra trước nhà quét lá rụng thì thấy những chiếc lá nào ngang tầm với của mình đều khắc dòng chữ " Tôi yêu Mừng " (tên ở nhà của cô Minh ) của chàng , nhưng tiếc là mối tình đó chẳng bao giờ thành ; cô gái ấy sau này cũng lấy một nhà thơ khác - đó là Lưu Trọng Lư .
Mộ Phạm Hầu thật sự rất khó tìm và phải nói nhờ chữ " duyên" mình mới tìm thấy được . Sau khi lang thang mỏi mệt mà vẫn chưa tìm ra , mình ngồi nghỉ bên một bức tường gạch cũ , bất chợt ngoảnh lại sau lưng thấy một cảnh cửa đóng kín và ổ khóa hoen rỉ , linh tính mách bảo sau cánh cửa đó có điều gì bí mật , vậy là vọt qua bức tường và vào trong khu mộ . Giữa những nấm mồ to nhỏ khác nhau, mộ thi sĩ Phạm Hầu khiên tốn nằm trong một góc khuất , không hương khói, cỏ dại mọc đầy , có lẽ lâu rồi không có ai đến đây chăm sóc . Trên bia mộ còn khắc những dòng trong bài thơ Vọng Hải Đài nổi tiếng của ông : 
Chẳng biết trong lòng ghi những ai?
Thềm son từng bước gót vân hài.
Hỡi ôi! Người chỉ là du khách
Giây phút dừng chân Vọng Hải đài.
......
Lòng xiêu xiêu, hồn nức hương mai,
Rạng đông về thức giấc hoa nhài.
Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có những ai?







Thứ Tư, 8 tháng 6, 2016

CHUYỆN NHỎ TÔI VIẾT BÊN LÀNG VÂN.

Sau một chặng “ đổ dốc “ từ trên lưng đèo xuống bãi biển , tôi đến làng Vân vào một buổi sáng mùa hè nắng gắt . Biển trong xanh có thể nhìn thấy tận đáy những con cua đang vội vã chạy ra xa khi thấy bóng người , từng đợt sóng lấp loáng phản chiếu ánh mặt trời như hàng nghìn tấm gương thoắt ẩn hiện . Ngồi tránh nắng dưới bóng một cây nhãn , nhìn hai đứa trẻ đang mệt mỏi ngủ vùi trên một chiếc giường tre con con , dưới giường là con chó vằn vện đang thè lè cái lưỡi lã chã giọt ngắn dài ; bà mẹ ngồi bên cạnh , đôi mắt xa xăm nhìn về phía biển , bờ phía bên ấy là thành phố Đà Nẵng với những tòa nhà cao tầng hùng dũng nối liền nhau . 
- Mùa này cá ít lắm em à ! – Chị khởi đầu câu chuyện như vậy 
- Vì sao gia đình mình lại trở về đây ?
- Nhớ biển , cả đời hai vợ chồng đã lớn lên và sống với nghề biển , vào thành phố ra vô hoài không biết làm gì để nuôi con , hai vợ chồng lại ra đây , dựng căn lều tạm mà hằng ngày đi đánh cá .
- Trong thành phố bộ không vui hơn hả chị ?
- Có gì đâu mà vui em , anh chị không có việc làm , mấy đứa nhỏ cũng chẳng có chỗ gần gần để vui chơi , muốn chở con đi đây đó nhưng tiền đâu mà mua xe máy . Ngày xưa ở đây vui lắm , tuy không giàu nhưng muốn ăn gì cũng có : rau rác ở trong rừng , trái cây đủ loại , cá tôm không thiếu … 
Tôi nằm nghỉ trưa dưới chân một ngọn đồi choài ra biển như một bán đảo , bên cạnh là một khe nước nhỏ luôn xao động bởi những con cá đuổi nhau , chúng lườm mắt nhìn con người lạ mặt đang nằm trên hai thân cây cau đổ ghép lại mà không chút sợ hãi . Giấc ngủ trưa ngắn ngủi trong tiếng động “ bò , bê “ rộn ràng và lá cây xào xạc . 
Theo những con đường mòn nhỏ rất lâu rồi không có người qua lại , tôi đi sâu vào trong khu “làng ma” . Đập vào mắt là những đồng ruộng khô cằn đầy dấu chân của loài móng guốc , nhưng mảnh vườn nhỏ cằn cỗi với đủ loại trái cây nhưng lại hiếm thấy quả , có lẽ rất lâu rồi nó không còn được chăm sóc bởi bàn tay con người ; và giữa những khu vườn ấy là những căn nhà hoang đổ nát , những mảng tường vỡ , những viên gạch không còn nguyên vẹn , những hồ cá khô khốc loạt soạt tiếng chân của loài bò sát . Nhìn những kiến trúc còn lại tôi thầm nghĩ ngôi làng của những người bị bệnh phong này ngày xưa không quá nỗi nghèo khổ như người ta hình dung , tuy bị xa lánh và phải sống biệt lập nhưng cuộc sống của họ không quá nỗi thiếu thốn . 
Con đường mòn dẫn đến hết ngôi nhà này đến ngôi nhà khác , thỉnh thoảng lại bắt gặp những lối đi bắt đầu một cách vu vơ và kết thúc cũng rất mơ hồ , chỉ có mỗi một con đường bê- tông duy nhất là đường dẫn nước sạch từ trên đèo xuống đồn biên phòng bên dưới và có những con chó nhỏ đang hồ hởi đùa giỡn trên đó . 
Lại về ngồi dưới cạnh gốc nhãn cũ nghe chiều đang dần buông xuống . Một chiếc thúng nhỏ cập bờ , người đàn ông trên tay mang theo 2 – 3 quả bong bóng hồng bước xuống , trong nhà hai đứa trẻ chạy ùa ra kêu lên vui vẻ : “ Ba về , ba về!” . Con chó quẩy đuôi tít mù tung cát chạy theo . Tôi nhìn những đứa trẻ đang vui mừng đón lấy những quả bong bóng từ tay cha, một trận gió to thổi qua làm quả bóng tụt khỏi tay bay xuống bờ cát nóng , đứa trẻ chạy theo đuổi bắt lấy , ôm chặt vào lòng ,quả bóng nổ tung , một dòng nước mắt chảy xuống trên khuôn mặt lấm lem đất cát ….. Một trận gió to vụt qua , tôi lấy tay dụi mắt nhìn cho rõ , bóng đứa trẻ nhạt nhòa … , chỉ thấy thành phố Đà Nẵng đằng xa ….và những tòa nhà cao tầng hùng dũng đứng bên nhau ….
HẾT





















Chủ Nhật, 29 tháng 5, 2016