Sau một chặng “ đổ dốc “ từ trên lưng đèo xuống bãi biển , tôi đến làng Vân vào một buổi sáng mùa hè nắng gắt . Biển trong xanh có thể nhìn thấy tận đáy những con cua đang vội vã chạy ra xa khi thấy bóng người , từng đợt sóng lấp loáng phản chiếu ánh mặt trời như hàng nghìn tấm gương thoắt ẩn hiện . Ngồi tránh nắng dưới bóng một cây nhãn , nhìn hai đứa trẻ đang mệt mỏi ngủ vùi trên một chiếc giường tre con con , dưới giường là con chó vằn vện đang thè lè cái lưỡi lã chã giọt ngắn dài ; bà mẹ ngồi bên cạnh , đôi mắt xa xăm nhìn về phía biển , bờ phía bên ấy là thành phố Đà Nẵng với những tòa nhà cao tầng hùng dũng nối liền nhau .
- Mùa này cá ít lắm em à ! – Chị khởi đầu câu chuyện như vậy
- Vì sao gia đình mình lại trở về đây ?
- Nhớ biển , cả đời hai vợ chồng đã lớn lên và sống với nghề biển , vào thành phố ra vô hoài không biết làm gì để nuôi con , hai vợ chồng lại ra đây , dựng căn lều tạm mà hằng ngày đi đánh cá .
- Trong thành phố bộ không vui hơn hả chị ?
- Có gì đâu mà vui em , anh chị không có việc làm , mấy đứa nhỏ cũng chẳng có chỗ gần gần để vui chơi , muốn chở con đi đây đó nhưng tiền đâu mà mua xe máy . Ngày xưa ở đây vui lắm , tuy không giàu nhưng muốn ăn gì cũng có : rau rác ở trong rừng , trái cây đủ loại , cá tôm không thiếu …
Tôi nằm nghỉ trưa dưới chân một ngọn đồi choài ra biển như một bán đảo , bên cạnh là một khe nước nhỏ luôn xao động bởi những con cá đuổi nhau , chúng lườm mắt nhìn con người lạ mặt đang nằm trên hai thân cây cau đổ ghép lại mà không chút sợ hãi . Giấc ngủ trưa ngắn ngủi trong tiếng động “ bò , bê “ rộn ràng và lá cây xào xạc .
Theo những con đường mòn nhỏ rất lâu rồi không có người qua lại , tôi đi sâu vào trong khu “làng ma” . Đập vào mắt là những đồng ruộng khô cằn đầy dấu chân của loài móng guốc , nhưng mảnh vườn nhỏ cằn cỗi với đủ loại trái cây nhưng lại hiếm thấy quả , có lẽ rất lâu rồi nó không còn được chăm sóc bởi bàn tay con người ; và giữa những khu vườn ấy là những căn nhà hoang đổ nát , những mảng tường vỡ , những viên gạch không còn nguyên vẹn , những hồ cá khô khốc loạt soạt tiếng chân của loài bò sát . Nhìn những kiến trúc còn lại tôi thầm nghĩ ngôi làng của những người bị bệnh phong này ngày xưa không quá nỗi nghèo khổ như người ta hình dung , tuy bị xa lánh và phải sống biệt lập nhưng cuộc sống của họ không quá nỗi thiếu thốn .
Con đường mòn dẫn đến hết ngôi nhà này đến ngôi nhà khác , thỉnh thoảng lại bắt gặp những lối đi bắt đầu một cách vu vơ và kết thúc cũng rất mơ hồ , chỉ có mỗi một con đường bê- tông duy nhất là đường dẫn nước sạch từ trên đèo xuống đồn biên phòng bên dưới và có những con chó nhỏ đang hồ hởi đùa giỡn trên đó .
Lại về ngồi dưới cạnh gốc nhãn cũ nghe chiều đang dần buông xuống . Một chiếc thúng nhỏ cập bờ , người đàn ông trên tay mang theo 2 – 3 quả bong bóng hồng bước xuống , trong nhà hai đứa trẻ chạy ùa ra kêu lên vui vẻ : “ Ba về , ba về!” . Con chó quẩy đuôi tít mù tung cát chạy theo . Tôi nhìn những đứa trẻ đang vui mừng đón lấy những quả bong bóng từ tay cha, một trận gió to thổi qua làm quả bóng tụt khỏi tay bay xuống bờ cát nóng , đứa trẻ chạy theo đuổi bắt lấy , ôm chặt vào lòng ,quả bóng nổ tung , một dòng nước mắt chảy xuống trên khuôn mặt lấm lem đất cát ….. Một trận gió to vụt qua , tôi lấy tay dụi mắt nhìn cho rõ , bóng đứa trẻ nhạt nhòa … , chỉ thấy thành phố Đà Nẵng đằng xa ….và những tòa nhà cao tầng hùng dũng đứng bên nhau ….
HẾT